Những năm đầu Karl V của Thánh chế La Mã

Người thừa kế của Bourgogne và Tây Ban Nha

Karl của Bourgogne lúc 16 tuổi

Do cái chết của người anh là Juan của Aragón và Castilla và chị gái Isabella của Tây Ban Nha, cũng như của con trai Isabella là Miguel nên mẹ của Karl có thể hy vọng vào vương miện Aragón và Castilla. Vào năm 1502, Juana của Castilla và chồng Felipe el Hermoso đã chính thức được Cortes (nghị viện) ở Toledo và Salamanca công nhận là người thừa kế. Ngay từ năm 1504, sau cái chết của mẹ là nữ hoàng Isabella, Juana đã trở thành người thừa kế của vương miện Castilla dưới sự chấp chính của cha là vua Fernando II của Aragón.

Sau cái chết của cha Felipe el Hermoso vào ngày 25 tháng 9 năm 1506, cậu bé Karl mới 6 tuổi đã phải tiếp quản miền bắc của công quốc Bourgogne năm xưa. Do áp lực từ giới quý tộc Bourgogne, nên vào ngày 15 tháng 1 năm 1515, Karl đã được tuyên bố là đã trưởng thành và qua đó có thể tự thân chấp chính khi mới 15 tuổi. Triều đình mà Karl thừa kế theo nghi thức Bourgogne ở Bruxelles vẫn còn sống theo truyền thống văn hoá thời Trung cổ, trong khi các quốc gia khác đã bắt đầu hình thành nên nghi thức mới. Lễ hội tỏ sự thần phục đã đi kèm với các hội thao, săn bắn và những bựa tiệc lớn. Vào năm tiếp đó, vua Fernando qua đời. Mặc dù theo di chúc mà vị vua quá cố để lại, người em Ferdinand vốn lớn lên tại Tây Ban Nha của Karl, đã được đề xuất làm người kế vị, nhưng Karl lại thừa hưởng vương miện Aragón mà ông ngoại để lại dựa theo luật Castilla cổ. Do mẹ ông với tư cách là người thừa kế của Castilla vì mắc bệnh tâm thần mà không thể tự mình tiếp quản triều chính nên quyền nhiếp chính đã rơi vào tay Karl. Ông cai trị vương quốc Castilla với tư cách là nhiếp chính cho đến khi mẹ ông qua đời năm 1555. Trong khoảng thời gian nay, ông cũng được phong làm vua trên danh nghĩa của Castilla. Ở Tây Ban Nha, tuyên bố về sự thừa kế của gia tộc Habsburg tuy đã được thừa nhận, nhưng Karl bị buộc phải đích thân xuất hiện để xác nhận điều đó. Do kế hoạch hành trình bị trì hoãn, nên vào năm 1516, Karl đã ký hiệp ước Noyon với vua Pháp là François I. Hiệp ước này bảo đảm vị thế của Karl cả trong nội bộ lẫn bên ngoài tại công quốc Bourgogne và cho phép ông có thể nắm quyền tại Tây Ban Nha. Nước cờ này được xem là đúng theo ý của một bộ phận quý tộc Bourgogne thân Pháp, trong số đó có một vài cố vấn của Karl.

Năm 1517, Karl sang Tây Ban Nha để được Cortes (nghị viện) công nhận quyền lực của mình tại Aragón vá Castilla. Tại đây, ông lần đầu tiên trong đời gặp đứa em trai là Ferdinand, vốn được nuôi lớn tại triều đình của ông ngoại. Karl đã có thể giành được chiến thắng trước em trai. Sau đó, ông đã chuyển em trai mình đến Hà Lan, để em mình lớn lên tại đó. Do Karl sử dụng các thân cận người Bourgogne của mình vào các chức vụ quản lý cao trong triều và ban đầu không nói được nửa chữ tiếng Tây Ban Nha, đã làm phật lòng các giai cấp người Tây Ban Nha. Phải sau vài lần nhượng bộ, ví dụ như không mang tiền ra nước ngoài, chỉ bổ nhiệm người bản địa, học tiếng Tây Ban Nha và phải nhanh chóng kết hôn, các giai cấp Castilla và Vương miện Aragón mới tỏ ra thần phục ông. Do Karl là người đầu tiên thống nhất vương miên hai xứ Castilla và Aragon dưới một liên minh cá nhân nên ông được xem là vị vua đầu tiên của Tây Ban Nha. Qua đó, những vùng đất nằm dưới quyền kiểm soát của ông ngoài hai xứ Tây Ban Nha ra còn có Navarra, Napoli, Sicilia, Sardegna, các thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ và trên lý thuyết cũng bao gồm khu vực Thái Bình Dương phía đông quần đảo Maluku (xem bài Hiệp ước Zaragoza).

Bầu làm vua ở Đức

Hoàng đế Maximilian mất vào tháng 1 năm 1519, để lại cho cháu mình không chỉ có Công quốc Burgund mà còn các vùng đất kế thừa của dòng họ Habsburg (khu vực cốt lõi của Áo ngày nay) cùng với các vùng đất phụ thuộc của Burgund và quyền thừa kế đầy tranh cãi của danh hiệu Hoàng đế La Mã-Đức. Trước khi qua đời, Maximilian đã không kịp giải quyết sự kế vị ngai vị Hoàng đế theo hướng thuận lợi cho nhà Habsburg. Không chỉ có Karl, vua François I của Pháp và Henry VIII của Anh cũng tự ứng cử để trở thành người kế vị danh hiệu Hoàng đế La Mã-Đức. Trước khi cuộc bầu cử kết thúc, viện nguyên lão còn đưa Tuyển hầu tước Friedrich III của Sachsen vào cuộc đua. Ngoài ra, em trai Ferdinand của Karl đôi lúc vẫn được trù tính làm ứng cử viên. Tuy nhiên, sự ứng cử của Karl không phải không gây tranh cãi. Phe phái tại Tây Ban Nha lo sợ rằng sự ứng cử của Karl có thể đưa bán đảo Iberia vào tầm ảnh hưởng của Đế quốc. Sự ứng tuyển của Karl còn được quảng cáo bởi Mercurino Arborio di Gattinara,[11] vị Đại Tổng lý tại nhiệm từ năm 1518. Ông này còn quảng cáo rằng Karl là một ứng viên "Đức". Điều này không dễ dàng chút nào vì Karl không biết nói tiếng Đức.

Cuộc đối đầu giữa Karl và François I mang một cường độ vượt quá tất cả các cuộc bầu cử trước đó và sau này. Cả hai ứng cử viên đại diện cho ý tưởng của một "chế độ quân chủ vạn năng", sẽ vượt qua mọi phân cách quốc gia dân tộc ở châu Âu. Một nhà cai trị có ưu thế sẽ phải bảo vệ hoà bình trong nội bộ châu Âu và bảo vệ phương Tây khỏi tham vọng bành trướng của người Hồi giáo Ottoman ("Türkengefahr"). Chẳng hạn như Erasmus, nhà nhân bản học người Rotterdam, đã chỉ trích về ý tưởng này. Tuy vậy, ý tưởng về một nhà nước châu Âu thống nhất lại có hiệu quả khá cao.[11] Những điều ủng hộ Karl chính truyền thống của các hoàng đế Habsburg và Karl chính là người thừa kế tự nhiên của họ và cũng như bởi tầm quan trọng của dòng họ Habsburg trong đế quốc. Mặt khác, quyền lực bên ngoài nước Đức của ông mạnh hơn nhiều so với những người tiền nhiệm và trọng điểm quyền lực của ông nằm ngoài Đế quốc. Do vậy, các thân vương trong Đế quốc lo ngại rằng ưu thế của vị quân chủ sẽ vượt trội những tầng lớp trong Đế quốc, trong khi đo, vua Pháp lại không bị coi là một mối đe dọa. Trong thời gian chờ đợi vua Pháp đã giành được phiếu của Tuyển hầu tước kiêm Tổng giám mục Trier và của Tuyển hầu tước Pfalz. và hứa hẹn sẽ trả thêm 30 vạn florin cho những người khác. Hội đồng Tuyển hầu tước bao gồm ba vị thuộc giới tăng lữ (tổng giám mục Mainz, Köln và Trier) và bốn vị thân vương thế tục (Vua Böhmen, Công tước Sachsen, Bá tước Brandenburg và Bá tước Pfalz).

Nếu như Karl von Habsburg không được Jakob Fugger ra tay tương cứu, có lẽ vua Pháp mới sẽ là người trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh

Trong tình thế khó khăn này, đại gia xứ Augsburg, thương nhân Jakob Fugger, người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ, đã quyết định ra mặt ủng hộ Karl. Karl đã chuyển số tiền khổng lồ 851.918 (khoảng 95.000 aoxơ vàng = 115 triệu USD)[12] tới tay 7 vị Tuyển hầu tước và kết quả là Karl được hội đồng Tuyển hầu tước thống nhất bầu chọn vắng mặt lên ngai vị vua La Mã-Đức vào ngày 28 tháng 6 năm 1519. Trong tổng số tiền, số tiền 543.585 florin mà Jakob Fugger bỏ ra chiếm đến gần 2 phần 3.[13] Một phần ba còn lại là của dòng họ Welser (143.000 florin) và của ba chủ ngân hàng người Ý (florin). Số tiền "chạy chức" này thường được hiểu như là tiền hối lộ.

Lễ đăng quang của Charles Quint tại Aachen (Aix-la-Chapelle trong tiếng Pháp)

Vào ngày 23 tháng 10 năm 1520, Karl của Bourgogne đã được Tổng giám mục xứ Köln Hermann von Wied đặt vương miện tại Nhà thờ chính toà Aachen và sau đó đã tự xưng là: "Vua của người La Mã, Hoàng đế La Mã được chọn, semper Augustus". Vào ngày 26 tháng 10 năm 1520, Giáo hoàng Lêô X đã chấp thuận quyền sử dụng danh hiệu này và kể từ đó, Karl chính thức mang danh hiệu:

Ta, Karl đệ Ngũ, Hoàng đế La Mã được chọn bởi ân điển của Đức Chúa Trời, semper Augustus (Mãi là Augustus), vua của Đức, vua của toàn Tây Ban Nha, của Castila, Aragon, León, hai Sicilia, Jerusalem, Hungari, Dalmatia, Croatia, Navarra, Granada, Toledo, Valencia, Galicia, Mallorca, Sevilla, Sardegna, Córdoba, Corse, Murcia, Jaén, Algarve, Algeciras, Gibraltar, của quàn đảo Canaria, của các quần đảo và đất liền của Ấn Độ (tức Châu Mỹ), của Đại dương &c. Vua, Đại Công tước Áo, Công tước Bourgogne, của Lothringen, của Brabant, của Steyr, của Kärnten, của Krain, của Limburg, của Luxemburg, của Geldern, của Calabria, của Athen, của Neopatria và của Württemberg &c. Bá tước của Habsburg, của Flandern, của Tirol, của Görz, của Barcelona, của Artois und của Burgund &c. Bá tước của Hennegau, của Holland, của Seeland, của Pfirt, của Kyburg, của Namur, của Roussillon, của Cerdagne und củatphen &c. Lãnh chúa xứ Elsass, Bá tước của Burgau, của Oristan, của Goziani và của Thánh chế La Mã, Thân vương xứ Schwaben, của Katalonien, của Asturiea &c. Chúa đất của Friesland của Windischen Mark, của Pordenone, của Biscaya, của Monia, của Salins, của Tripolis và của Mecheln &c.

Phương châm của Karl là Plus Ultra (tiếng Latinh có nghĩa là "Mở rộng hơn nữa")

Karl V, người cai trị một đế quốc mà "mặt trời không bao giờ lặn", giờ đây phải mắc nợ ngập đầu dòng họ Fugger. Năm 1521, khoản nợ của ông với Jakob Fugger là vào khoảng 600.000 florin. Vị hoàng đế đã trả 415.000 florin bằng cách bồi thường gia tộc Fugger công nghiệp khai thác bạc và mạ đồng ở Tirol. Tại Quốc hội năm 1523 tại Nürnberg, khi mà các đẳng cấp Đế quốc bàn luận về việc hạn chế vốn thương mại và số lượng phân điểm của các phường hội, Jakob Fugger có nhắc nhở hoàng đế về những sự giúp đỡ của mình trong cuộc chạy đua tới ngai vị hoàng đế rằng "Cũng nên cân nhắc lại rằng Thánh thượng Bệ hạ nếu không có sự nhúng tay của thần sẽ không thể nhận được vương miện La Mã,..." Với yêu cầu phải nhận được các khoản tiền còn nợ ngay lập tức, Jakob đã khiến Karl V phải từ bỏ ý định hạn chế độc quyền tư bản. Vào năm 1525, Jakob Fugger nhận được quyền thuê các mỏ thuỷ ngânchu saAlmadén, Castilla trong ba năm. Cho đến năm 1645, gia tộc Fugger vẫn còn nắm thành phần trong ngành khai thác mỏ ở Tây Ban Nha.[8][14]

Lãnh thổ ở hải ngoại

„Phúng dụ Hoàng đế Karl V là Bá chủ thế giới“ (Tranh của Peter Paul Rubens, năm 1604). Câu nói: „Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc của ta“ là đế chỉ Karl V.

Để có thể chi trả cho nền chính trị mở rộng cũng như cho quân đội và hải quân vốn đặc biệt tăng mạnh kể từ những năm 1530, Karl V không chỉ phụ thuộc vào các nguồn thu ở Tây Ban Nha. Vào giữa triều đại của mình, Karl V đã thu được khoản thu hơn 1 triệu đồng đuca hàng năm từ Tây Ban Nha. Bộ trưởng bộ Nội vụ Tây Ban Nha Francisco de los Cobos y Molina đã xây nên một bộ máy quan liêu có hiệu quả, tăng thêm thu nhập quốc gia.[15] Tuy nhiên, dần dần, số tiền này cũng sẽ không đủ để chi trả cho các khoản chi tiêu. Các cuộc vận chuyển vàng bạc của các Conquistador từ Châu Mỹ dần dần chiếm được vị thế quan trọng hơn.[16] Sau khi mỏ bạc Potosí được mở cửa, trong khoảng thời gian từ năm 1541-1560, hơn 480 tấn bạc và 67 tấn vàng đã cập bến Tây Ban Nha. 1 phần 5 khoản thu từ châu Mỹ đi vào túi hoàng gia, do vậy mà các chiến dịch của Karl V khó đã có thể được thực hiện nếu không có số vàng được chuyển bởi Hernán Cortés từ Tân Tây Ban NhaFrancisco Pizarro từ Peru.[17] Ở Tây Ban Nha, việc quản lý và khai thác các thuộc địa mới đã được bắt đầu. Vào năm 1525, Sevilla đã trở thành cảng độc quyền thương mại từ châu Mỹ. Hội đồng Ấn Độ (Consejo de Indias), hội đồng cai trị các thuộc địa, cũng được đóng tại đây. Vào năm 1535, phó vương quốc Tân Tây Ban Nha và phó vương quốc Peru đã được thành lập. Số kim loại quý khai thác được được dùng làm nền tảng cho trái phiếu chính phủ. Dù có những khoản thu khổng lồ này, nhưng số tiền vẫn không đủ để chi trả cho những chính sách của Karl V. Vì thế, nhiều thuộc địa phải cầm cố cho các chủ nợ. Cũng vì thế mà khu vực thuộc Venezuela ngày nay được bàn giao cho dòng họ Welser khai thác từ năm 1527 đến năm 1547. Về mặt tổng thể, chính sách cho nợ đã khiến nợ công Tây Ban Nha gia tăng đáng kể.[16][18]

Ngay cả khi những cuộc chinh phục không được chỉ huy trực tiếp từ trung ương, Karl V đã khuyến khích chính sách bành trướng, và chính ông là một trong những người đầu tư cho chuyến đi vòng quanh thế giới của Magellan. Cùng với những lãnh thổ mới chiếm ở Châu Mỹ cũng như với vùng đất Philippines được đặt theo trên tên con trai ông (thực tế thì Philippines mới trở thành lãnh thổ chính thức sau khi ông mất) ở Thái Bình Dương, Karl V cai trị một đế quốc mà do chính ông gọi là "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn".[19][20] Với việc những người ngoại đạo bị ép cải sang Công giáo, vị hoàng đế này luôn coi những cuộc chinh phục của mình là một điều mà một người như ông cần phải làm. Với sự can thiệp của giáo sĩ Bartolomé de Las Casas, Karl V còn cố gắng bãi bỏ chế độ nô lệ thông qua một vài sắc lệnh. Trong những năm 1540, ông đã hạ lệnh giải phóng tất cả những người da đỏ. Tuy nhiên, những cố gắng này đều bị những sự kiện tại thuộc địa và nhu cầu vàng của Karl biến mất vào hư vô.

Reichstag tại Worms năm 1521

Tình hình tại Đức trở nên khá phức tạp vào thời điểm Karl V lên nắm quyền. Trong tầng lớp nông dân và tầng lớp dân cư hạ lưu nghèo sinh sống trong thành thị đã bắt đầu xảy ra tình trạng náo động. Đặc biệt là Phong trào Kháng cách do Martin Luther khởi xướng đã dần dần giành được nhiều sự ủng hộ. Về vấn đề Luther, ban đầu Karl V đã nghe theo các cố vấn của mình xử lý vấn để theo Chủ nghĩa nhân văn. Vào tháng 11 năm 1520, ông tuyên bố mở một hội đồng trọng tài xét xử về điều này. Luther đã bị Giáo hoàng bị khai trừ khỏi giáo hội năm 1521. Trong trường hợp này, việc thi hành thường lệ của Reichsacht đã không xảy ra do Luther được Tuyển hầu tước Friedrich III của Sachsen đứng sau lưng bảo vệ. Friedrich III yêu cầu xử vụ việc dựa trên cơ sở pháp lý mà không cần quan tâm đến Pháp đình tôn giáo Rôma. Điều này đã đặt ra câu hỏi về mối quan hệ hiện tại giữa Đế quốc La Mã Thần thánh và Giáo hội Công giáo Rôma. Reichstag thực sự là một nơi thích hợp để làm rõ mọi chuyện. Karl đã chấp nhận thỏa hiệp và cho mời Luther đến Worms để xác định lập trường của mình trước hoàng đế và nghị viện. Giữa hoàng đế và Giáo hoàng Lêô X, con bài Luther được sử dụng cho mục đích chính trị. Karl V sử dụng nó để gây áp lực, với mục đích tiếp cận Giáo triều Rôma.

Cuộc họp quốc hội lần đầu tiên trong triều đại của Karl V diễn ra tại Worms vào năm 1521. Trọng điểm chính của cuộc họp lần này chính là những câu hỏi về những Cải cách quốc gia (Reichsreform) và cách đối mặt với phong trào Kháng cách do Martin Luther khởi xướng. Về mặt hiến pháp, giữa hoàng đế và các tầng lớp đã xãy ra tranh cãi về việc ai sẽ là người nắm quyền. Câu hỏi này vốn dưới thời Maximilian I vẫn chưa đưa ra được lời giải. Và các tầng lớp lại một lần nữa yêu cầu có thể tác động vào triều chính bằng cách đưa một Hội đồng Cai trị vào hoạt động. Karl cũng đã chấp thuận điều này trong bản thoả ước bầu cử. Tuy nhiên, Karl đã nhấn mạnh rằng Hội đồng Cai trị chỉ hoạt động khi hoàng đế vắng mặt. Theo bản Regimentsordnung được thảo vào ngày 26 tháng 5 năm 1521, thì những điều ông muốn tiếp tục được áp dụng. Ngoài ra, việc em trai ông là Ferdinand trở thành Thống đốc và Người Chủ trì Hội đồng Cai trị đã giúp giữ vững những ảnh hưởng của hoàng đế ngay cả khi ông vắng mặt. Nhưng cuối cùng, quyết định này chỉ là một sự thỏa hiệp giữa nguyên lý tầng lớp và quân chủ. Tuy nhiên, cũng vì thế mà Hoàng đế cùng các tầng lớp thống trị không bao giờ có thể đồng lòng. Những câu hỏi khác cũng được đem ra bàn bạc trong Quốc hội lần này là về Reichskammergericht và trật tự Landfriede. Nếu nhìn nhận về một Reichskammergericht đã bị khủng hoảng, thì một thỏa hiệp giữa hoàng đế và tầng lớp cai trị là có thể đạt được. Điều này góp phần vào việc giúp triều đình giành được uy tín và tầm quan trọng. Ngay cả đối với Landfriede, việc thi hành các bản án của tòa đã được giao phó cho các Reichkreis.

Cuộc họp quốc hội tại Worms còn được biết đến về việc Martin Luther được triệu tập để xác định lập trường của mình trước hoàng đế và nghị viện. Ông được hoàng đế cam kết bảo vệ an toàn trong thời gian này. Tại đây, Johannes Eck, trong tư cách là phát ngôn nhân của hoàng đế, đối diện Luther với câu hỏi: "Ông có đồng ý bác bỏ các cuốn sách của ông cùng những điều lầm lạc được chép ở trong?". Câu trả lời của Luther là: "Trừ khi được thuyết phục bởi Thánh Kinh và lý trí – tôi không công nhận thẩm quyền của các giáo hoàng và các công đồng vì họ tự mâu thuẫn với nhau – lương tâm của tôi chỉ thuận phục Lời của Thiên Chúa, bởi vì chống lại lương tâm thì không đúng và cũng không an toàn".[21] Martin Luther đã trả lời rằng: "Tôi đứng đây; tôi không thể làm gì khác. Nguyện Thiên Chúa phù hộ tôi. Amen!"[22] Trong năm ngày kế tiếp, các phiên họp kín được triệu tập để quyết định số phận của Luther. Ngày 25 tháng 5 năm 1521, Hoàng đế trình bày bản thảo Chiếu chỉ Worms tuyên bố Luther bị đặt ngoài vòng pháp luật, cấm các tác phẩm của ông và yêu cầu bắt giữ ông, "Ta muốn bắt giữ và trừng phạt hắn như là một tên dị giáo xấu xa."[23] Chiếu chỉ kể là tội phạm bất cứ ai chứa chấp hoặc cấp dưỡng cho Luther và cho phép mọi người giết Luther mà không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Karl V của Thánh chế La Mã http://www.deutsche-biographie.de/pnd118560093.htm... http://www.deutschlandfunk.de/herrscher-eines-reic... http://www.motecuhzoma.de/cort-karl.html http://www.spiegel.de/spiegelgeschichte/a-666923.h... http://elib.uni-stuttgart.de/opus/volltexte/2004/1... http://www.ccel.org/ccel/schaff/encyc07/Page_72.ht... http://www.crivoice.org/creededictworms.html https://books.google.com/books?id=KZ5D2WOqidoC&pg=... https://books.google.com/books?id=XBg1AQAAIAAJ&pg=... https://books.google.com/books?id=fj19CAAAQBAJ&pg=...